Bất kì cuốn sách nào của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đều đáng để đọc. Nhiều cuốn đã khơi nguồn cảm hứng sáng tạo cho lĩnh vực âm nhạc, phim ảnh. “Cô gái đến từ hôm qua”, “Kính vạn hoa”, “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” và gần đây nhất “Mắt biếc” là những cái tên được nhắc đến nhiều hơn cả. So với những cuốn sách kể trên, “Quán Gò đi lên” khá bình dị nhưng không kém phần đặc sắc. Đọc cuốn truyện dài này của Nguyễn Nhật Ánh, bao căng thẳng, buồn lo trong cuộc sống chợt tan biến.
Một cuốn sách bình dị
Trước hết, bình dị từ cái tên
Nhan đề cuốn truyện không gợi cho ta những liên tưởng thơ mộng, lãng mạn như “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” hay “Mắt biếc”, “Quán Gò đi lên” là một cách nói rất mộc mạc, giản đơn dùng để định vị một địa điểm. “Quán Gò” cũng không phải địa danh nổi tiếng như Sa Pa, Hạ Long, Sầm Sơn…, “Quán Gò” – cái tên rất dân dã và chắc hẳn còn xa lạ với nhiều bạn đọc.
Thứ hai, bình dị ở bối cảnh truyện
“Quán Gò đi lên” lấy bối cảnh là một quán ăn “chuyên bán các món ăn xứ Quảng” bố trí bình thường như bao quán ăn bình dân khác giữa phố Sài Gòn: Có hiên quán làm nơi giữ xe cho khách, bề ngang quán 4 mét, bề sâu 13 mét ngăn làm ba: “Ngoài cùng là nơi bày bán, đằng sau vách ngăn là bếp, tít phía trong là phòng tắm và nhà vệ sinh. Gần bếp lò có một cái cầu thang gỗ dẫn lên căn gác lửng, chỗ ngủ của đám con gái, cũng là nơi treo móc đủ thứ áo quần đồng thời là nhà kho”.
Thứ ba, bình dị về nhân vật
Hệ thống nhân vật chính trong “Quán Gò đi lên” là các nhân viên trong quán Đo Đo, tuổi chừng 17, 18, đôi mươi. Xét về nguồn gốc xuất thân hay ngoại hình đều không có gì quá đặc biệt.
Thằng Cải người Quảng Đông, xưa nay vẫn cùng mẹ bán hủ tiếu ở đầu hẻm, khi mẹ già quá, dẹp tiệm hủ tiếu, Cải ra coi xe ở quán Đo Đo.
Con Kim người Quảng Tây, một thời buôn bán cùng cô Thanh – chủ quán Đo Đo, trong lúc thất nghiệp và chờ lấy chồng ra phụ cô Thanh làm chân kế toán.
Con Lan người Bến Tre, gia đình khó khăn, đi làm phụ mẹ nuôi em, chuyên bán đồ khô trong quán Đo Đo.
Thằng Lâm người Tây Ninh, thi trượt đại học, vừa làm tiếp viên của quán Đo Đo vừa cố gắng ôn luyện để năm tới thi tiếp.
Con Cúc người Quảng Nam chính gốc, bạn của cháu gái cô Thanh được giới thiệu đến quán Đo Đo vì quán chuyên bán các món xứ Quảng cũng cần có một người Quảng Nam cho ra cái hồn của quán. Con Cúc làm phụ bếp cho con Lệ bếp trưởng, chuyên nhặt rau, rửa bát…

Thứ tư, cốt truyện của “Quán Gò đi lên” không kịch tính, gay cấn
Truyện xoay quanh những tình huống thường ngày ở quán Đo Đo: Thằng Cải vừa coi xe vừa trò chuyện cùng con Cúc khi con Cúc quạt lò nướng bánh đa trước hiên; khách đến quán, thằng Lâm, con Lan ra phụ vụ; thằng Cải trò chuyện với thằng Lâm lúc tối, sau khi đóng cửa quán… Đó là những sự việc giản dị, thường bắt gặp trong cuộc sống. Và sợi dây liên kết các sự việc có vẻ vụn vặt ấy là chuyện tình cảm giữa con Cúc – thằng Lâm – con Lan. Tuy là chuyện tình cảm tay ba nhưng rất nhẹ nhàng trong sáng, đôi lúc có gợn sóng chứ chưa đến mức sóng gió.
Nhưng sau tất cả những điều bình dị vừa kể trên, “Quán Gò đi lên” vẫn là một cuốn truyện đặc sắc
Điều đặc sắc dễ thấy nhất là những tình huống hài hước
Chẳng hạn, lúc con Cúc mới từ quê ra Sài Gòn, với cách phát âm đậm chất địa phương, nó đã khiến mọi người trong quán dở khóc, dở cười. “Khách đòi mua bánh bèo đem về, con Cúc kêu con Lệ:
– Chị kiếm cho em cái bô!
…Con Lệ tuy không hiểu con Cúc kiếm một cái bô làm chi, con Lệ vẫn vào toilet cầm cái bô đem ra. Con Cúc ré lên:
– Trời, lấy cái ni đựng bánh bèo cho khách răng được?
Con Lệ nhíu mày:
– Chớ sao mày kêu tao lấy cái bô?
– Không phải cái bô ni, cái bô tê tề.
… Nhác thấy mớ bao ni lông…, nó thò tay rút một cái rẹt, mặt mày tí tởn:
– Cái bô ni nề!
– Trời đất! – con Lệ trợn mắt kêu trời – Cái bao mà mày kêu cái bô, ông nội tao cũng không hiểu nữa là tao.
Con Cúc cười hí hí.”
Hay chuyện con Cúc đi mua lốp xe đạp. Con Kim dặn con Cúc phải cố gắng phát âm theo tiếng Sài Gòn, cố gắng đừng nói “bao gạo” thành “bô gộ”, “bằng phẳng” thành “bèn phẻn”… khiến con Cúc dọc đường đi lẩm nhẩm học đánh vần muốn trẹo quai hàm. Nhưng đến lúc vào quán phụ tùng xe đạp, con Cúc luống cuống nói:
“- Dạ bán cho con một cái láp xe độp.
– Cháu mua cái gì? – chủ quán không hiểu, nghiêng tai hỏi lại.
Cúc càng toát mồ hôi:
– Dạ cái láp xe độp.
Chủ quán trợn mắt tính hỏi tiếp lần ba thì đứa con trai đứng bên nhanh nhẩu thuyết minh:
– Chỉ hỏi mua cái lốp xe đạp đó ba.
– Trời đất! – chủ quán giơ hai tay lên trời – Lốp xe đạp thì nói là lốp xe đạp đại cho rồi, còn bày đặt nói lái là láp xe độp.
Thiệt oan cho con Cúc, nó có định nói lái nói liếc gì đâu.”
Đọc những tình huống hài hước như vậy trong truyện, ai cũng phải bật cười, những mệt mỏi, căng thẳng sẽ tiêu tan theo những tiếng cười dí dỏm ấy.
Đến với “Quán Gò đi lên”, ta được giới thiệu đôi nét văn hóa đặc sắc nhất của Quảng Nam
Đặc sắc về cách dùng từ, phát âm
Người Quảng Nam nói “dị òm” nghĩa là “mắc cỡ”, “răng” nghĩa là “sao”, “chi” nghĩa là “gì”, “mắc tịt” là “xấu hổ”, “biểu” là “bảo”, “giống độc” là “người yêu”… Đây là lời thoại của nhân vật Cúc:
“Con Gái nhỏ biểu răng thì con làm rứa” (Con Gái nhỏ bảo sao thì con làm vậy.)
“Ui cha, mắc tịt quá! Anh Cải làm chi dị òm rứa!” (Trời ơi, xấu hổ quá! Anh Cải làm gì mắc cỡ quá!)
Người Quảng Nam thường phát âm chữ “ôm” thành “ơm”, “am” thành “ôm”. Trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh, quán Đo Đo đã cho treo hai bài thơ đặc giọng “nước mắm Nam Ô nguyên chất” – loại nước mắm số một Quảng Nam – trong quán cho các thực khách thưởng lãm. Bài thơ thứ nhất của nhà thơ Tường Linh:
“Rủ nhau vô núi hái chơm chơm,
Nhớ bạn hồi còn học chữ Nơm.
Sáng sáng lơn tơn đi nhử cuốc,
Chiều chiều xớ rớ đứng câu tơm.
Mùa đông tơi lá che mưa bấc,
Tiết hạ hiên tranh lộng gió nờm.
Nghe chuyện xóm xưa thời khói lửa,
Sảng hồn, sấm nổ tưởng đâu bơm!”
Bài thơ thứ hai của nhà thơ Tú Rua:
“Rứa mới kêu là chất Quảng Nôm,
Ăn cục nói hòn chẳng thôm lôm.
Có chàng công tử quê Đà Nẽng,
Cưới ả Thúy Kiều xứ Phú Côm.
Cha vợ đến thăm chào trọ trẹ,
Mẹ chồng không hiểu nói cồm rồm.
Thêm ông hàng xóm người Hà Nội,
Chả hiểu mô tê cũng tọa đồm.”
Đặc sắc về những món ăn
Nhắc đến xứ Quảng là nhắc đến mì Quảng, nem, chả, tré, bánh đúc, bánh đập, bánh nện, bánh bèo. Ăn món Quảng Nam còn phải ăn theo cách của người Quảng Nam mới thấy được hương vị của món ăn. Như: ăn mì Quảng không ăn kèm chả lụa mà nhân phải làm từ tôm, thịt heo, thịt gà, ăn kèm bánh đa, húng lủi, bắp chuối, ớt bột. Ăn bánh bèo thì không dùng thìa mà dùng cái siêu – vót bằng tre, mũi nhọn, lưỡi mỏng hao hao con dao găm. Lấy cái siêu rạch hai nhát gọn gàng theo hình chữ thập, xẻ chén bánh bèo làm tư, rồi kề cái siêu vào miệng chén, ngoáy một vòng, cái bánh bèo tách ra khỏi trôn chén, chích cái siêu vào từng góc bánh nhấc lên ăn.
Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đã khéo léo giới thiệu đôi nét văn hóa đặc sắc của Quảng Nam xen kẽ trong các tình huống truyện khiến câu chuyện tuy chỉ lấy bối cảnh là trong quán Đo Đo nhưng không gian không chật hẹp, tù túng.

“Quán Gò đi lên” tuy xoanh quanh các nhân vật bình thường, trong một bối cảnh cũng bình thường nhưng đã gửi gắm đến người đọc nhiều thông điệp ý nghĩa trong cuộc sống.
Đó là thông điệp về ý chí nghị lực, qua nhân vật Lâm: với sự cố gắng, quyết tâm, Lâm đã thi đỗ đại học, đạt được ước mơ.
Đó là thông điệp về tình yêu thương giữa con người với con người, giữa con người với gia đình, quê hương.
Con Cúc chỉ làm việc cùng ở quán Đo Đo với Cải nhưng thương Cải hoàn cảnh éo le, đã vay tiền mua lốp xe đạp cho Cải. Cúc vì thương Lâm, muốn Lâm thi đỗ đại học mà giả vờ nhận lời yêu Lâm để Lâm yên tâm ôn thi. Khi bố bị tai nạn, sức khỏe yếu, thương mẹ một mình làm việc đồng vất vả, Cúc xin thôi việc ở quán Đo Đo về quê giúp mẹ…
Cô Thanh chủ quán không trách mắng Lâm khi Lâm nói tiếng Anh nhầm lẫn khiến khách bỏ đi. Cô cũng không đồng ý để Lâm bỏ tiền túi đền cho quán mấy tô mì khách không ăn, không trả tiền. Khi Cúc về quê, cô Thanh còn cho thêm Cúc tiền tàu xe…
Tên quán Đo Đo trong truyện do chồng cô Thanh đã lấy tên làng nơi mình sinh ra đặt cho quán để làm kỉ niệm. Đằng sau cái tên của quán ẩn chứa tình yêu quê hương của nhân vật chồng cô Thanh.

Trong truyện “Quán Gò đi lên”, thì “Quán Gò đi lên” chính là một “câu thần chú” đầy ý nghĩa.
Đó là câu thần chú giúp các nhân viên của quán Đo Đo thoát khỏi tình huống trớ trêu khi bị khách truy hỏi về nguồn gốc tên quán. Dù không biết Đo Đo ở đâu, Quán Gò là quán nào, chỉ cần trả lời “Quán Gò đi lên”, các nhân viên quán Đo Đo sẽ nhận được sự hài lòng từ hầu hết những người khách đến ăn.
Đó còn là câu thần chú đối với những người khách đến ăn ở quán Đo Đo. Đo Đo – nơi Nguyễn Nhật Ánh từng sống và gắn bó trong những năm thơ ấu cũng đã được lấy làm bối cảnh chính của tiểu thuyết “Mắt biếc” – vốn là một cái làng bé xíu ở Quảng Nam. Dân Quảng Nam lưu lạc vào Sài Gòn làm ăn “thấy có cái quán quê hương ngay giữa Sài Gòn thì xúc động lắm” nên ghé vào ăn. Vào quán, hỏi nhân viên trong quán: “Đo Đo ở đâu” mà được nghe câu trả lời “Quán Gò đi lên” thì hả hê sung sướng vì địa danh thân thương của quê hương được nhắc đến, gợi cho khách bao kỉ niệm đẹp đẽ, yên bình nơi quê nhà. Khách ăn uống sẽ ngon miệng hơn. Như vậy, truyện “Quán Gò đi lên” thể hiện một cách kín đáo tình yêu quê hương của những người con xa xứ, trong đó có cả nhà văn Nguyễn Nhật Ánh.
“Quán Gò đi lên” của Nguyễn Nhật Ánh là một cuốn truyện nhẹ nhàng, dí dỏm, ý nghĩa. Giữa nhịp sống hiện đại hôm nay, cuốn truyện có thể giúp xua tan những lo âu, bon chen, hối hả trong mỗi chúng ta.
Xem thêm: