Ivan Bunin (22/10/1870 – 8/11/1953) được trao giải Nobel Văn Học năm 1933 nhờ những tác phẩm hiện thực miêu tả thiên nhiên và phân tích tâm lí nhân vật một cách sâu sắc, phản ánh chân thực sự tan rã của chế độ gia trưởng và cảnh sống cơ cực của người nông dân Nga trong khoảng giao thời hai thế kỉ XIX và XX. I. Bunin là đại biểu lớn cuối cùng của chủ nghĩa hiện thực phê phán Nga đầu thế kỷ XX; là nhà thơ, nhà văn Nga đầu tiên đoạt Giải Nobel Văn học.
Xem thêm: Sinclair Lewis, nhà văn Mỹ đầu tiên được nhận Giải Nobel Văn Học

Ivan Alekseievich Bunin xuất thân trong một gia đình quý tộc nghèo ở vùng Trung Nga, thuộc dòng họ có nhiều người nổi tiếng trong lĩnh vực chính trị và nghệ thuật. Ông sống nhiều năm ở làng quê mộc mạc, tĩnh lặng; năm 1881 vào học trường trung học nhưng chưa được bốn năm thì hết tiền, phải về tự học với anh trai. Năm 1889, I. Bunin rời quê, làm nhiều nghề kiếm sống như thợ sửa bản in thử, thủ thư, làm báo… Niềm đam mê hội họa và âm nhạc đã ảnh hưởng tới sáng tác văn học sau này của ông. I. Bunin làm thơ, viết văn khá sớm, sự nghiệp văn chương của ông chủ yếu nổi tiếng về văn xuôi với các truyện ngắn và truyện vừa.
Tác phẩm đầu tiên của ông là bài thơ Bên mộ Nadson (tên một nhà thơ Nga 1863-1887). Năm 1891, ông xuất bản tập thơ trữ tình đầu tiên ở Orlov. Thơ đã mở đầu văn nghiệp và còn đeo đẳng mãi ngòi bút của ông đến tận cuối đời. Năm 1894, ông in truyện ngắn đầu tay Tanka, năm 1897 xuất bản tập truyện ngắn đầu tiên Nơi cuối trời và các truyện ngắn khác, viết về sự suy tàn của tầng lớp quý tộc và cảnh sống cơ cực của người nông dân Nga, được giới phê bình khen ngợi.
Tác phẩm của ông không đề cập đến các vấn đề chính trị. Ông không theo một trường phái nào như Suy đồi, Tượng trưng, Lãng mạn hay Tự nhiên chủ nghĩa. Ông sống chủ yếu ở nông thôn, đi du lịch nhiều nơi ở Nga và các nước trên thế giới như Italia, Thổ Nhĩ Kỳ, Hi Lạp, Palestin, Tunisia, Ai Cập, các vùng nhiệt đới… Ông quan tâm nhiều đến các vấn đề về tâm lí, tôn giáo, đạo đức và lịch sử.
Năm 1909, I. Bunin được bầu làm Viện sĩ danh dự Viện Hàn lâm Khoa học Nga. Năm 1910, ông xuất bản thiên truyện Làng, một bức tranh chân thực về cuộc sống nông thôn nước Nga; tác phẩm trở thành chủ đề bàn luận sôi nổi của giới trí thức Nga về thực chất xã hội Nga và chỉ trong một thời gian rất ngắn đã đưa I. Bunin trở nên nổi tiếng; thành công này được tiếp tục ở các tác phẩm tiếp theo.
Sau cách mạng tháng Mười, I. Bunin di cư sang Pháp (năm 1920) và tiếp tục sáng tác những tác phẩm mới mang tính nghệ thuật cao như tiểu thuyết Cuộc đời Arseniev (1930), chùm truyện Những con đường rợp bóng cây (1943), v.v… Ngoài ra, I. Bunin còn là một dịch giả thơ bậc thầy. Bản dịch Bài ca về Gaiavata (Hiawatha) của nhà thơ Mỹ Longfellow được Viện Hàn lâm Nga trao giải thưởng văn học cao quý nhất của nước Nga – giải thưởng Puskin.
Năm 1933, I. Bunin là nhà văn người Nga đầu tiên được trao Giải Nobel “vì nghệ thuật nghiêm ngặt mà với nó nhà văn đã phát triển nền văn xuôi cổ điển Nga”. Trong đáp từ, I. Bunin đánh giá cao sự táo bạo của Viện Hàn lâm Thụy Điển đã trao giải cho một nhà văn lưu vong.
Những năm cuối đời, I. Bunin viết một số truyện kí độc đáo và sâu sắc về các danh nhân Nga như L. Tolstoi, A. Trekhov… Năm 1951, ông được bầu là Hội viên danh dự số một của Hội Văn bút Quốc tế. Ông trút hơi thở cuối cùng ở chốn tha hương, để lại những tác phẩm đau đáu tình yêu quê hương xứ sở.
Truyện ngắn và thơ của I. Bunin đã được dịch sang tiếng Việt và được bạn đọc yêu mến.
Đánh giá của Viện Hàn lâm Thụy Điển(1):

Quá trình hoạt động văn học của Ivan Bunin rõ ràng và đơn giản. Ông sinh ra trong một gia đình điền chủ và lớn lên trong bầu không khí văn học của một thời đại mà giai cấp điền chủ thống trị nền văn hóa Nga. Họ đã sáng tạo ra một nền văn học chiếm vị trí vinh dự ở Châu Âu song cũng gây ra những biến động chính trị long trời lở đất. “Những Quý ngài có lương tâm trong sạch” là câu nói mà thế hệ sau này gọi một cách mỉa mai những con người phẫn nộ và đau xót phản đối chế độ nông nô nhục nhã. Họ xứng đáng được gọi tên một cách kính trọng hơn, bởi chính họ sẽ sớm phải trả giá bằng sự phồn vinh của họ cho phong trào đấu tranh mà họ tạo nên.
Tài sản mà chàng thanh niên Bunin thừa hưởng chỉ còn là mảnh vụn của những gì gia đình ông từng có. Chính trong thế giới thơ ca, nhà thơ cảm nhận được sự gắn bó của mình đối với các thế hệ trước. Ông sống trong thế giới ảo tưởng, nhu nhược, không có mấy tình cảm dân tộc và hi vọng vào tương lai. Tuy nhiên, ông không thoát khỏi ảnh hưởng của phong trào cải cách. Khi còn là học sinh, ông có ấn tượng mạnh bởi lời kêu gọi tình hữu ái của Tolstoi đối với những người hèn mọn và nghèo khổ. Vì thế ông học tập, như những người khác, để sống bằng chính đôi bàn tay của mình. Về phần mình, ông chọn nghề đóng thùng, sống trong nhà một đạo hữu thích tranh luận. (Lẽ ra ông có thể chọn một nghề ít khó khăn hơn – các mảnh ván rất dễ tách rời nhau, nên phải có nhiều kĩ năng lắm mới đóng được một chiếc thùng không bị rò).
Để dẫn dắt tinh thần, ông làm quen với một người đã đem hết nghị lực để đấu tranh chống lại cám dỗ của xác thịt theo nghĩa đen của từ này. Thói ăn chay đã đi vào học thuyết của ông như vậy. Trong một cuộc hành trình cùng với người đó để được giới thiệu với Tolstoi, Bunin có thể thấy được những thành công và thất bại của bản thân. Ở nhiều quầy ăn của nhà ga ông đã thành công nhưng cuối cùng thì món paté thịt có sức cám dỗ quá mạnh. Nuốt xong miếng cuối cùng, ông tìm được lời giải thích khôn ngoan cho sự sa ngã của mình: “Tuy nhiên, tôi biết không phải món paté làm chủ tôi mà chính tôi đã làm chủ nó. Tôi không phải là nô lệ của nó. Tôi ăn khi tôi thích và tôi không ăn nếu tôi không thích”. Chẳng cần nói cũng biết chàng thanh niên chẳng muốn ở lâu cùng người bạn của mình nữa.
Chính Tolstoi cũng không coi nhiệt tình tôn giáo của Bunin là điều quan trọng. “Cậu muốn sống một cuộc sống giản dị và cần lao? Rất tốt, nhưng xin đừng hợm hĩnh. Có thể trở thành người tuyệt vời ở bất kì hoàn cảnh sống nào”. Về nghề văn, ông nói: “Tốt thôi, nếu cậu thực sự say mê, nhưng hãy nhớ rằng không bao giờ được lấy nó làm mục đích sống”. Lời nhắn nhủ này vô tác dụng đối với Bunin, ông đã là nhà thơ bằng toàn bộ bản thể mình.
Ông nhanh chóng thu hút được sự chú ý của độc giả nhờ những vần thơ mô phỏng khuôn mẫu cổ điển. Chủ đề của các tác phẩm thường miêu tả về cái đẹp sầu muộn của cuộc sống quá khứ trong những thái ấp cũ xưa. Cùng lúc đó ông viết những bài thơ văn xuôi, miêu tả thiên nhiên với những ấn tượng phong phú, được thể hiện trung thực và tinh tế phi thường. Vậy là ông tiếp nối nghệ thuật của các nhà hiện thực chủ nghĩa lớn, trong khi những người đương thời dấn thân vào các cuộc phiêu lưu văn chương như chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa tự nhiên mới, chủ nghĩa Adam, chủ nghĩa vị lai và các hiện tượng nhất thời khác. Ông đơn độc trong một kỉ nguyên có nhiều thay đổi mạnh mẽ.
Năm Bunin 40 tuổi, thiên truyện vừa Làng (1910) đã làm ông nổi tiếng thực sự vì nó đã gây ra một cuộc tranh luận gay gắt. Ông chỉ trích một điểm quan trọng trong niềm tin của người Nga vào tương lai. Đó là giấc mơ về những người nông dân Slave trong sạch, đảm đang, nhờ họ mà dân tộc này sẽ có ngày phủ bóng lên toàn thế giới. Bunin chống lại luận điểm ấy bằng cách miêu tả khách quan thực trạng các phẩm chất của người nông dân. Kết quả là sự ra đời của một tác phẩm thuộc loại đen tối và dữ dội nhất trong văn học Nga, nơi không hiếm những tác phẩm như vậy.
Tác giả không đưa ra lời giải thích lịch sử nào cho sự suy thoái của giai cấp nông dân, trừ một thông tin vắn tắt nói rằng người ông của hai nhân vật chính trong tiểu thuyết bị lũ chó săn của chủ thái ấp truy đuổi đến kiệt sức mà chết. Tình tiết này thể hiện rõ nét dấu ấn tinh thần của những người bị áp bức. Nhưng Bunin miêu tả họ như những người không do dự trước bất kì sự khủng khiếp nào. Và ông dễ dàng chứng minh cho đánh giá khắc nghiệt của mình. Bạo lực ở mức độ dã man nhất đẩy ngôi làng vào làn sóng của cuộc cách mạng đầu tiên – điềm báo trước cho cuộc cách mạng thứ hai.
Vì không còn tên gọi nào khác, cuốn sách này đã được dịch là truyện vừa(2), nhưng thực ra thì nó ít giống với thể loại này. Đó là một loạt những câu chuyện đầy kịch tính về cuộc sống của tầng lớp dưới; sự chân thật của từng chi tiết đặc biệt quan trọng đối với tác giả. Nhà phê bình không thắc mắc nhiều về chi tiết mà về việc tuyển chọn một cách vô tư những chi tiết ấy. Người nước ngoài không thể đánh giá sự đúng đắn của giới phê bình. Bây giờ thì cuốn sách đã sống lại vì những sự kiện xảy ra từ hồi đó và nó vẫn là một tác phẩm cổ điển, một mẫu mực về nghệ thuật vững vàng, cô đọng và chắc chắn, không những trong con mắt của những người Nga di cư mà cả ở trong nước. Những miêu tả về nông thôn vẫn được tiếp tục trong các tiểu luận ngắn hơn, thỉnh thoảng đề cập đến yếu tố tôn giáo, yếu tố mà những người hăng hái theo dân tộc chủ nghĩa nghĩ rằng có thể biến giai cấp nông dân thành một dân tộc hứa hẹn. Trong phân tích không khoan nhượng của nhà văn, lòng sùng tín có mục đích cứu rỗi chỉ là một bản năng vô chính phủ và sự thích thú được tự sỉ vả mình, đặc tính cơ bản của tinh thần Nga, theo ông nghĩ. Ông thực đã khác hẳn với niềm tin vào Tolstoi thời trẻ, nhưng ông vẫn giữ lại một thứ: tình yêu với nước Nga. Hiếm có bức tranh nông thôn nào tuyệt diệu và mang tính nghệ thuật cao như các truyện ngắn của ông, tựa như ông muốn giữ nó cho riêng mình, để có thể tự do hít thở thêm một lần nữa sau khi nhìn thấy tất cả những gì xấu xa và giả dối.
Sukhodol kể về một điền trang, được thể hiện với phong cách khác hẳn Làng. Cuốn sách không phải là chân dung một thời đại mà về thời hoàng kim của giới điền chủ, dựa trên hồi ức của một bõ già từng sống trong gia đình ông. Tác giả cũng không thể hiện cái nhìn lạc quan của mình trong tác phẩm này: các điền chủ được miêu tả như những người thiếu sức sống, vô trách nhiệm với số phận của chính mình và của thuộc hạ. Không có lời buộc tội nào nặng hơn thế. Người ta tìm thấy trong tác phẩm này những chi tiết bênh vực nhân dân, điều mà Bunin bỏ qua trong Làng.
Tuy vậy, bức tranh đã hiện ra trong một thứ ánh sáng hoàn toàn khác mang đầy chất thơ. Một phần đó là nhờ sự hòa giải với quá khứ, quá khứ đã trả món nợ của nó bằng cái chết. Nhưng cũng còn nhờ cái nhìn dịu dàng của người bõ già đối với một thế giới thay đổi và hỗn mang, tuy thế giới đó đã chứng kiến những tháng năm tuổi trẻ của ông tàn lụi. Nhưng chất thơ trong tác phẩm này chủ yếu bắt nguồn từ năng lực tưởng tượng và khả năng tái hiện cuộc sống một cách sinh động với sự cô đọng cao độ. Sukhodol là một tác phẩm văn học thuộc loại hàng đầu.
Trong suốt những năm trước chiến tranh thế giới thứ nhất, Bunin thực hiện nhiều cuộc hành trình dài xuyên qua các nước vùng Địa Trung Hải tới tận Viễn Đông. Kinh nghiệm ấy cho ông chất liệu để viết một loạt tác phẩm về các xứ sở xa lạ, đôi lúc được gợi hứng từ các tư tưởng của người Hindu như sự thanh thản thông qua việc từ bỏ dục vọng. Nhưng thường thường ông đề cập sự tương phản giữa Phương Đông mơ mộng và Phương Tây tham lam chạy theo vật chất. Khi chiến tranh xảy ra, những nghiên cứu này, trong tinh thần xê dịch hiện đại mang dấu ấn của thảm kịch thế giới, được thể hiện trong một thiên truyện sẽ trở thành tác phẩm nổi tiếng nhất của ông: Quý ông đến từ San Francisco.
Cũng như các tác phẩm khác, trong tác phẩm này Bunin đơn giản hóa chủ đề bằng cách chỉ phát triển ý tưởng chính thông qua các nhân vật điển hình thay vì xây dựng các nhân vật phức tạp. Ở đây, ông có một lý do đặc biệt: dường như tác giả e ngại gần gũi với các nhân vật bởi chúng đánh thức sự phẫn nộ và căm thù của ông. Một tỉ phú người Hoa Kì, sau một cuộc đời không ngừng khát khao tiền bạc, bỗng hóa thành một ông già bước vào thế giới với hi vọng làm trẻ trung lại lương tâm khô cằn, tâm hồn mù quáng và sự thèm khát thú vui già cỗi của mình. Tác giả hứng thú với nhân vật này chỉ vì nó cho phép ông miêu tả một cách khắc nghiệt cái chết của nhân vật tựa như bong bóng xà phòng. Như thể đó là một bản án mà thế giới nhẫn tâm này dành cho ông lão. Không chỉ là bức chân dung về một người đàn ông thảm hại đến vô nghĩa, thiên truyện độc đáo này còn là chân dung của định mệnh, kẻ thù của người đàn ông này. Tác giả không thần bí hóa mà miêu tả một cách khách quan nhất trò chơi của các lực lượng tự nhiên với thân phận phù du của con người. Tuy nhiên, cảm giác huyền bí được đánh thức trong độc giả và càng trở nên rõ nét qua âm điệu và sự thể hiện ngôn ngữ hoàn hảo. Quý ông đến từ San Francisco ngay lập tức được chấp nhận như một kiệt tác văn học. Nhưng hơn thế nữa: nó là điềm báo trước cho một thế giới ngày càng thoái hóa, nó là sự lên án tội lỗi, nó là sự biến dạng của nền văn hóa nhân loại, số phận mà chính thế giới này bị xô đẩy tới.
Hậu quả chiến tranh đã trục xuất tác giả ra khỏi đất nước của ông, đất nước mà ông gắn bó hết lòng, và ông dường như tự đặt ra bổn phận sống im lặng dưới những áp lực nặng nề. Nhưng xứ sở đã mất càng sống lại tha thiết hơn trong kí ức ông, và sự nuối tiếc khiến ông càng thương hại cho con người. Đôi lúc, ông tìm ra những lý do mạnh mẽ hơn để vẽ ra chân dung kẻ thù của mình, những người nông dân, với cái nhìn minh triết về tất cả tội lỗi và sai lầm của họ. Nhưng cũng có khi ông nhìn về phía trước. Trong tất cả những điều xấu xa, ông đã nhìn thấy một vài điều tốt đẹp của nhân loại không gì có thể hủy diệt nổi, và ông thể hiện điều đó không phải với đòi hỏi đạo đức mà chỉ như là một sức mạnh tự nhiên, tràn đầy sức sống tiềm ẩn. “Cây của Chúa”, một trong những nhân vật của ông tự gọi mình như vậy, “tôi thấy rằng Chúa mang nó lại, gió thổi tới đâu thì tôi theo đến đó”. Cũng theo cách như vậy, ông đã rời bỏ các nhân vật của mình để trở về hiện tại.
Từ những kho tàng vô tận trong kí ức của ông về thiên nhiên Nga, sau này Bunin có thể tìm lại niềm vui thích và ham muốn sáng tạo. Ông đem lại màu sắc và ánh sáng cho số phận những người Nga mới, được tưởng tượng với sự khắc khổ như khi ông còn sống ở trong nước. Trong cuốn Tình yêu của Mitia, ông phân tích cảm giác trẻ trung với một tài nghệ bậc thầy về tâm lí, trong đó những ấn tượng về cảm giác và tâm trạng được thể hiện một cách tuyệt vời. Tác phẩm này rất thành công trong đất nước ông, dù nó đánh dấu sự trở lại của văn học truyền thống tưởng như đã bị kết án vĩnh viễn cùng với nhiều thứ khác. Trong cuốn Cuộc đời Arseniev (Phần I, Istóky dnéy (3)), phần này là một cuốn tự truyện, ông tái hiện lại đời sống Nga với cái nhìn thoáng hơn bao giờ hết. Bút pháp già dặn vượt trội của ông trong tác phẩm này một lần nữa khẳng định ông là người nghệ sĩ vô song của đất nước Nga mênh mông tráng lệ. Trong lịch sử văn học của đất nước, vị trí của ông đã được định rõ, vai trò của ông được khẳng định từ lâu và hầu như không hề có ý kiến khác nhau. Ông đã đi theo truyền thống vĩ đại của thế kỉ XIX rực rỡ đồng thời bám sát hướng phát triển mới. Ông hoàn thiện nghệ thuật thể hiện cô đọng và phong phú – miêu tả chân thực dựa trên những quan sát chính xác mà không ai có được ngoài ông. Với sự nghiêm ngặt cao nhất, ông chống lại tất cả những ý đồ quên đi thực tế chỉ để làm đẹp cho ngôn từ. Mặc dù bản chất là nhà thơ trữ tình, ông không bao giờ tô vẽ những gì ông thấy mà luôn thể hiện nó ở mức độ trung thực nhất. Thêm vào thứ ngôn ngữ giản dị của ông là một vẻ duyên dáng mà, theo ý kiến của đồng bào ông, làm nên một thứ nước uống quý giá có thể thưởng thức, thậm chí cả qua bản dịch. Khả năng ấy chính là tài năng xuất chúng và siêu việt của ông, nó để lại dấu ấn kiệt tác cho văn nghiệp của ông.
Thưa Ngài Bunin, tôi vừa cố phác họa một bức tranh về văn nghiệp của Ngài với một sự khắc khổ đặc trưng cho nó, một bức tranh hiển nhiên là không hoàn chỉnh vì thời gian là quá ít so với công việc khó khăn mà tôi được yêu cầu. Còn bây giờ, xin Ngài hãy nhận từ tay Đức Hoàng thượng giải thưởng mà Viện Hàn lâm Thụy Điển trao tặng cho Ngài cùng với những lời chúc mừng chân thành nhất.
Tân Đôn và Trần Việt Hưng dịch từ tiếng Anh
(Nguồn: www.nobelprize.org)
Diễn từ(4): Những ngày Nobel(5)
Ngày mồng 9 tháng 11 năm 1933, xứ Provence tốt lành cổ xưa, vùng Grasse cổ kính thanh bình, nơi mà tôi hầu như đã sống suốt mười năm cuộc đời, một ngày cuối thu màu tro xám tĩnh lặng và ấm áp…
Những ngày như này không bao giờ làm tôi thích thú với công việc. Tuy vậy, tôi vẫn ngồi vào bàn làm việc từ sáng như mọi khi. Tôi vẫn ngồi đó cả sau bữa sáng. Nhưng, nhìn ra cửa sổ thấy trời sắp mưa, tôi cảm thấy: không, mình không thể. Hôm nay, rạp chiếu phim có buổi chiếu ban ngày, tôi sẽ đi xem phim.
Đi từ trên núi xuống, nơi có ngôi nhà trọ “Belveder” tọa lạc, để vào thành phố, tôi nhìn ngắm thành phố Cannes ở đằng xa, nhìn ngắm biển cả hơi mờ mờ trong những ngày thế này, dãy núi Estrel mờ sương và bắt gặp mình với ý nghĩ:
– Có lẽ, ngay lúc này, tại một nơi nào khác của Châu Âu, số phận của mình đang được định đoạt…
Tuy nhiên, ở trong rạp, tôi lại quên đi Stockholm.
Sau giờ giải lao, lúc một bộ phim nhảm nhí vui vẻ nào đó dưới cái tên “Baby” bắt đầu, tôi nhìn lên màn ảnh với sự quan tâm đặc biệt: cô bé Kixa Kuprina xinh đẹp đóng phim này, cô là con gái của ông Alecxandr Ivanovitr. Nhưng rồi trong bóng tối gần chỗ tôi ngồi có tiếng động vẻ rụt rè, tiếp đó là ánh sáng của chiếc đèn pin rồi ai đó chạm vào vai tôi và thầm thì với giọng xúc động và trịnh trọng:
– Ông có điện thoại từ Stockholm…
Và, ngay lập tức cả cuộc sống trước đây của tôi bị đứt đoạn. Tôi đi về nhà khá nhanh, nhưng chẳng cảm nhận được gì ngoài sự tiếc nuối không được xem cô bé Kixa đóng tiếp ra sao và sự nghi ngờ, không tin nổi vào những gì người ta thông báo cho tôi. Nhưng không, không thể không tin được: từ đằng xa đã thấy, căn nhà mà tôi đang ở tạm vốn luôn im lìm và tối mù mù chìm sâu giữa những khu vườn ôliu vắng lặng phủ đầy các sườn núi trên vùng Grasse, giờ đây lại sáng rực từ trên xuống dưới. Trái tim tôi bỗng thắt lại bởi một niềm bâng khuâng… Một bước ngoặt trong cuộc đời tôi…
Suốt buổi tối, ngôi nhà trọ “Belveder” luôn vang lên tiếng chuông điện thoại, đó là những cuộc điện thoại gọi cho tôi từ những con người nói những thứ tiếng khác nhau từ các vùng miền xa xôi, gần như từ tất cả các thủ đô của Châu Âu; vang lên những tiếng chuông của những người đưa thư đem tới những bức điện chúc mừng gần như từ tất cả các nước trên thế giới, – khắp mọi nơi trừ nước Nga! Và, căn nhà trọ này còn nghênh đón những cuộc “tấn công ồ ạt” đầu tiên của những vị khách đủ tầng lớp, các nhà nhiếp ảnh và nhà báo… Lượng khách cứ tăng dần, thành thử những khuôn mặt của họ cứ như dồn cục lại trước mắt tôi, người ta bắt tay tôi từ mọi hướng, cảm động và vội vã nói với tôi một câu như nhau. Những nhà nhiếp ảnh làm tôi lóa mắt bởi ánh đèn magiê để rồi sau đó họ phát đi trên khắp thế giới hình ảnh của một gã mất trí điên rồ nào đó; các nhà báo tranh nhau phỏng vấn tôi…
– Ông từ nước Nga đến đây lâu chưa?
– Tôi là kiều dân từ đầu năm 1920.
– Ông có nghĩ mình sẽ về đó bây giờ không?
– Trời ơi, sao lúc này tôi lại có thể về đó được?
– Có đúng ông là nhà văn Nga đầu tiên được trao giải thưởng Nobel trong suốt thời gian tồn tại của giải thưởng này?
– Đúng.
– Có thật là đã có lúc giải thưởng đó được đề nghị trao cho Lev Tolstoi và ông ta đã từ chối?
– Không đúng. Giải thưởng chưa bao giờ được đề nghị trao cho ai cả, mọi việc trao giải diễn ra một cách hết sức bí mật.
– Ông có mối liên hệ hay sự quen biết nào trong Viện Hàn lâm Thụy Điển không?
– Chưa bao giờ và không có mối liên hệ hay quen biết nào.
– Ông được trao tặng giải thưởng cho tác phẩm cụ thể nào của mình?
– Tôi nghĩ là cho toàn bộ các tác phẩm của tôi.
– Ông đã chờ đợi người ta sẽ trao giải cho mình chứ?
– Tôi biết mình nằm trong số những người được đề cử từ lâu và người ta đã tranh luận về tôi không phải một lần, tôi đã đọc nhiều lời khen ngợi dành cho những tác phẩm của mình từ những nhà phê bình nổi tiếng vùng bán đảo Scandinavia như Book, Osterling, Agrell, và lúc nghe nói họ có quan hệ tới Viện Hàn lâm Thụy Điển, tôi nghĩ họ cũng có thiện cảm có lợi cho tôi. Nhưng, dĩ nhiên, tôi không tin tưởng gì hết.
– Thường thì lễ trao giải thưởng Nobel diễn ra khi nào?
– Hàng năm vào một thời điểm: ngày 10 tháng 12.
– Vậy thì, ông sẽ đến Stockholm vào đúng thời gian trao giải này chứ?
– Có thể đến sớm hơn là khác: tôi mong muốn được cảm nhận sớm hơn sự hân hoan được đi xa. Do thân phận mất quyền thế của một người lưu vong và sự khó khăn của dân lưu vong chúng tôi trong việc làm thị thực, cho nên đã 13 năm nay tôi chưa đi đâu ra nước ngoài cả, chỉ duy nhất một lần sang Anh. Đối với tôi, một người đã từng đi nhiều nơi trên thế giới, thì đó quả là một trong những thiệt thòi lớn nhất.
– Ông đã tới các nước vùng bán đảo Scandinavia chưa?
– Chưa, chưa khi nào. Xin nhắc lại là, tôi đã đi nhiều, đến những vùng xa xôi, nhưng đều là đi về hướng Đông và hướng Nam, còn lên phía Bắc thì tôi để dành cho sau này…
Sự kiện này đã bất ngờ cuốn tôi vào dòng nước chảy xiết mà chẳng bao lâu thậm chí đã biến thành một thứ gì đó tựa như một sự tồn tại điên dại: từ sáng đến tối không có một phút giây rảnh rỗi và yên tĩnh. Bên cạnh tất cả những sự kiện bình thường hàng năm vẫn diễn ra quanh mỗi người đoạt Giải Nobel, thì với tôi, do tình thế bất thường của tôi, nghĩa là do tôi thuộc về cái nước Nga kì lạ mà bây giờ cư dân của nó sống phân tán khắp thế giới, đã diễn ra một cái gì đó mà chưa một người đoạt giải nào trên thế giới từng trải qua: quyết định của Stockholm đối với toàn thể nước Nga này, đất nước đã bị hạ nhục và bị xúc phạm đến vậy trong tất thảy mọi tình cảm của mình, đã trở thành một sự kiện mang tính dân tộc thực sự…
Đêm mồng 3, rạng sáng mồng 4 tháng 12, tôi đã ở xa Paris. Chuyến tàu tốc hành Phương Bắc, buồng riêng hạng nhất – đã bao năm rồi tôi chưa có cảm giác với tất cả điều này! Quá nửa đêm, chúng tôi đã tới nước Đức. Và tôi vẫn đứng ở chỗ cửa toa cuối đoàn tàu. Và từ dưới toa tàu, một cảnh vật gợi nhớ về nước Nga đang vùn vụt lùi dần về phía sau dưới ánh trăng nhàn nhạt: những cánh đồng bằng phẳng, những hàng cây phủ đầy tuyết trắng màu tang.
Buổi sáng, đến thành phố Hannover, tôi mở mắt, kéo tấm rèm lên – cửa sổ phủ tuyết, bám đầy băng. Băng đóng cả trên đường ray. Người đi lại trên sân ga đội mũ lông, mặc áo khoác lông – đã từ lâu tôi chưa nhìn thấy cảnh tượng này và hóa ra chúng đã được khắc sâu trong trái tim tôi!
Chiều tối, chúng tôi xuống chiếc tàu thủy “Hoàng đế Gustav đệ ngũ” và nó chầm chậm tiến về hướng bờ biển Thụy Điển. Lại những cuộc phỏng vấn, lại ánh sáng chói lóa của đèn magiê… Đến Thụy Điển, toa tàu chúng tôi đúng là lọt thỏm giữa đám đông các nhà nhiếp ảnh và các nhà báo… Và mãi đến tận khuya, rốt cuộc tôi cũng được ở một mình. Phía sau những ô cửa sổ là hai màu sáng và tối – những cánh rừng tối đen dày đặc chìm trong lớp tuyết trắng dày. Và tất cả những cái đó, cùng với toa tàu ấm nóng thật giống như những buổi đêm trước đây trên đường Nicolaevski…
Lễ trao giải cho những người đoạt giải diễn ra vào ngày 10 tháng 12 hàng năm và bắt đầu vào đúng 5 giờ chiều.
Vào ngày hôm đó, tiếng gõ cửa phòng ngủ của tôi vang lên sớm, – từ chiều hôm trước đã có lệnh phải đánh thức tôi trước 8 giờ 30 phút. Tôi bật dậy và nhớ ngay hôm nay là ngày gì: ngày trọng đại nhất. Đồng hồ mới chỉ 8 giờ, buổi sáng phương Bắc mờ mờ, những ngọn đèn đường dọc con kênh hiện rõ qua những ô cửa sổ chỗ tôi vẫn chiếu sáng, và một phần của Stockholm mà phía trên nó, phía trước mặt tôi, với tất cả các ngọn tháp, nhà thờ và những cung điện của mình, cũng có nét gì đó rất giống với thành Peterburg, còn có vẻ đẹp tuyệt trần mà thường chỉ xuất hiện vào lúc hoàng hôn và bình minh. Nhưng hôm nay tôi phải bắt đầu một ngày từ sớm: ngày mồng 10 tháng 12 – ngày mất của Alfred Nobel, và do vậy, từ sáng tôi phải đội chiếc mũ lễ và ra nghĩa trang ở ngoại ô thành phố, nơi tôi cần đặt những vòng hoa lên mộ ông và mộ người cháu trai mới mất của ông tên là Emmanuil Nobel. Hôm qua, lại 3 giờ đêm tôi mới ngủ, và bây giờ khi mặc quần áo tôi mới thấy trong người choáng váng. Nhưng, café đặc nóng, một ngày mới tươi sáng, giá lạnh, ý nghĩ về buổi lễ kỉ niệm đặc biệt đang đợi tôi tối nay đã làm tôi phấn chấn…
Giấy mời chính thức tham dự buổi lễ được gửi đến những người đoạt giải trước đó vài ngày. Giấy mời được soạn thảo (bằng tiếng Pháp) hoàn toàn phù hợp với sự chính xác vốn là đặc trưng của tất cả các nghi lễ của Thụy Điển:
– Xin mời các quý ngài đoạt giải có mặt tại Phòng Hòa nhạc để nhận giải thưởng Nobel vào ngày 10-12-1933, trước 4h50 chiều. Đức vua với sự tháp tùng của các thành viên Hoàng gia và toàn bộ triều thần sẽ tới Phòng Hòa nhạc vào đúng 5h để tham dự buổi lễ và đích thân trao cho từng người giải thưởng mình được nhận, sau đó cửa phòng sẽ được đóng lại và buổi đại lễ bắt đầu.
Đến muộn dù chỉ một phút hay sớm hai phút so với thời gian ghi trong bất kì giấy mời nào của Thụy Điển đều là điều không thể chấp nhận được. Vì thế, tôi bắt đầu mặc quần áo gần như là từ lúc 3h trưa, đề phòng gặp chuyện bất trắc xảy ra đại loại như: bỗng dưng khuy cài cổ chiếc áo sơ mi đuôi tôm biến đâu mất như tất cả những chiếc khuy áo trên thế giới thường thích làm như vậy trong những tình huống tương tự.
4 giờ 30 phút, chúng tôi lên đường.
Thành phố chiều tối nay sáng lên một cách đặc biệt bởi những ánh đèn, – vừa là để chào mừng những người đoạt giải, vừa là chuẩn bị chào đón lễ Giáng sinh và năm mới. Tiến vào “Ngôi nhà Âm nhạc” lớn, nơi thường diễn ra lễ trao giải, là đoàn xe dài vô tận và dày đặc đến nỗi anh tài xế chở chúng tôi, một chàng thanh niên vạm vỡ đội chiếc mũ lông thú xù lông, đã cực kì vất vả lúc chen lách giữa đoàn xe: chúng tôi chỉ được giải thoát khi lực lượng cảnh sát với nhiệm vụ đón rước những người đoạt giải, những người mà trong những trường hợp như thế này thường đi theo sát nhau, chặn tất cả những chiếc xe khác lại để cho chúng tôi qua.
Những người đoạt giải chúng tôi bước vào “Ngôi nhà Âm nhạc” cùng với cả đám đông những người khác, nhưng đến tiền sảnh chúng tôi được tách khỏi toán người này và được dẫn đi đâu đó theo những lối đặc biệt, vì thế những việc diễn ra trong phòng đại lễ trước lúc chúng tôi xuất hiện trên bục sân khấu tôi chỉ được biết qua lời người khác.
Khán phòng gây ngạc nhiên bởi sự cao ráo và không gian của nó. Lúc này, cả khán phòng được trang hoàng đầy hoa và đông nghịt người: hàng trăm bộ trang phục dạ hội phụ nữ đính ngọc trai và kim cương, hàng trăm chiếc áo đuôi tôm, những ngôi sao, những tấm huân chương, những dải băng nhiều màu và tất cả những tấm huân huy chương trang trọng khác. 5h kém 10, cả nội các Thụy Điển, ngoại giao đoàn, Viện Hàn lâm Thụy Điển, các thành viên ủy ban Giải thưởng Nobel và tất cả khách mời đã đều yên vị và giữ yên lặng. Đúng 5h, từ bục sân khấu, các nhạc công nổi những hiệu kèn thông báo sự xuất hiện của nhà vua. Rồi những tiếng kèn hiệu nhường chỗ cho âm thanh tuyệt vời của bài quốc ca vút lên từ đâu đó phía trên, và nhà vua bước vào trong đoàn hộ tống gồm thái tử kế vị và tất cả các thành viên khác trong Hoàng gia. Đi tiếp theo sau nhà vua là đoàn tùy tùng và các quần thần. Chúng tôi, bốn người đoạt giải, lúc này vẫn còn đang ở trong căn phòng nhỏ tiếp giáp với lối vào bục sân khấu ở phía sau.
Nhưng đã đến lượt chúng tôi bước ra. Từ bục sân khấu, những hiệu kèn lại vang lên, và chúng tôi đi theo sau mấy vị viện sĩ Viện Hàn lâm Thụy Điển, những người sẽ giới thiệu và đọc bản thuyết trình tóm tắt về chúng tôi. Tôi, người được chỉ định phát biểu đầu tiên trong buổi yến tiệc sau lễ trao giải, bây giờ, theo nghi lễ, sẽ bước ra bục sân khấu cuối cùng. Dẫn tôi ra là ông Per Hallstrửm, thư kí trọn đời của Viện Hàn lâm. Tôi bước ra mà kinh ngạc bởi sự ăn mặc sang trọng, bởi khán phòng đông nghịt người và khi những người đoạt giải bước ra cúi chào thì không chỉ cả khán phòng mà ngay cả nhà vua cùng với các thành viên Hoàng gia và quần thần của mình đều đứng cả dậy.
Sân khấu cũng lớn. Nó được trang hoàng những bông hoa tươi nhỏ màu hồng. Ghế của các viện sĩ được xếp bên phải bục sân khấu. Bốn ghế hạng nhất bên trái được dành sẵn cho những người đoạt giải. Phía trên tất cả những cái đó, là những lá quốc kỳ Thụy Điển lớn bất động và trang trọng treo trên các bức tường: thường thì người ta trang hoàng sân khấu bằng cờ của tất cả các nước của những người đoạt giải; thế lá cờ nào cho riêng tôi, một người lưu vong đây? Việc không thể treo cờ Liên Xô cho tôi buộc các nhà tổ chức buổi lễ vì tôi mà phải giới hạn bằng một loại cờ – cờ Thụy Điển. Một ý tưởng đầy ý nghĩa!
Ngài chủ tịch Quỹ Nobel khai mạc buổi lễ. Ông chào mừng đức vua, những người đoạt giải rồi nhường lời cho người diễn thuyết. Ông này dành toàn bộ lời phát biểu đầu tiên này để tưởng nhớ Alfred Nobel, – năm nay là năm kỉ niệm lần thứ 100 ngày sinh của ông. Tiếp theo là các bài thuyết trình nhận xét về từng người đoạt giải, và sau mỗi báo cáo, người đoạt giải thưởng được người thuyết trình mời đi từ bục sân khấu xuống để nhận từ tay nhà vua chiếc cặp với tấm bằng chứng nhận Giải Nobel và chiếc hộp đựng huy chương vàng lớn trên một mặt có khắc hình Alfred Nobel, còn mặt kia khắc tên người đoạt giải. Vào những quãng nghỉ, dàn nhạc chơi nhạc của Beethoven và Grieg.
Grieg là một trong những nhạc sĩ mà tôi yêu thích nhất. Với một niềm khoái cảm đặc biệt, tôi được nghe những giai điệu của ông trước khi ông Per Hallstrửm đọc bản thuyết trình về tôi.
Phút cuối cùng làm tôi cảm động. Bài tuyên dương của Hallstrom không những tuyệt vời mà còn thật chân thành. Phát biểu xong, với phong thái đáng mến, ông nói với tôi bằng tiếng Pháp:
– Thưa ngài Ivan Alecxeievitr Bunin, xin mời ngài bước xuống nhận từ tay nhà vua giải thưởng Nobel văn học năm 1933 do Viện Hàn lâm Thụy Điển trao tặng cho ngài.
Trong sự im lặng tuyệt đối ngay sau đó, tôi từ từ đi qua bục sân khấu và từ từ bước xuống theo những bậc thang tới chỗ nhà vua khi ấy đã đứng dậy đón tôi. Lúc này, cả khán phòng cũng đứng dậy và nín thở để nghe những lời nhà vua nói với tôi và những gì tôi đáp lại. Nhà vua chúc mừng tôi và thông qua tôi chúc mừng cả nền văn học Nga với cái bắt tay chặt đặc biệt thân thiện. Nghiêng mình cúi chào Người, tôi trả lời bằng tiếng Pháp:
– Muôn tâu đức vua, kính xin Người nhận lấy lòng biết ơn sâu sắc và kính trọng của tôi.
Những lời nói của tôi chìm trong những tràng pháo tay nhiệt liệt.
Nhà vua tổ chức lễ mừng bằng tiệc chiêu đãi cho những người đoạt giải tại cung điện của mình vào ngày hôm sau lễ trao giải. Còn vào buổi tối ngày 10 tháng 12, gần như ngay sau khi kết thúc buổi lễ, những người đoạt giải được chở đến dự bữa tiệc do ủy ban Giải thưởng Nobel tổ chức cho họ.
Chủ tọa buổi tiệc là vị thái tử kế vị.
Khi chúng tôi đến thì ở đó đã lại tề tựu đông đủ tất cả mọi người: tất cả các thành viên của Viện Hàn lâm, Hoàng gia và các quần thần, ngoại giao đoàn, giới nghệ thuật của Stockholm và những khách mời khác.
Hai người đầu tiên bước tới bàn tiệc là vị thái tử kế vị và vợ tôi, sau đó vợ tôi ngồi cạnh thái tử ở giữa bàn tiệc.
Chỗ của tôi là ở bên cạnh công chúa Ingrid, – hiện nay là hoàng hậu Đan Mạch, – đối diện với em trai nhà vua, hoàng thân Evgueni (cần nói thêm rằng, ông là một họa sĩ Thụy Điển nổi tiếng).
Vị thái tử kế vị nói lời khai mạc bữa tiệc. Ông dành cho Alfred Nobel những lời tưởng niệm cao đẹp.
Sau đó đến lượt những người đoạt giải phát biểu.
Thái tử đứng tại chỗ phát biểu. Chúng tôi phát biểu từ bục đặc biệt được bố trí ở góc sâu trong phòng tiệc cũng rộng lớn lạ thường, được bài trí dựng theo phong cách Thụy Điển cổ.
Đài phát thanh truyền những lời phát biểu của chúng tôi từ bục này đi khắp Châu Âu.
Đây là nguyên văn Diễn từ mà tôi đã đọc bằng tiếng Pháp:
Kính thưa thái tử, thưa các quý ông và quý bà!
Ngày mồng 9 tháng 11, ở một vùng đất xa xôi, tại thành phố cổ xứ Provence, trong ngôi nhà thôn quê nghèo nàn, tôi nhận được cuộc điện thoại thông báo về quyết định của Viện Hàn lâm Thụy Điển. Sẽ là không chân thành nếu tôi nói như mọi người trong những trường hợp tương tự thường nói, rằng đó là ấn tượng mạnh mẽ nhất trong cả cuộc đời tôi. Một triết gia vĩ đại từng nói thật chính xác rằng, cảm giác vui sướng mãnh liệt nhất cũng gần như chẳng có nghĩa lý gì khi đem so sánh với cái cảm giác đau buồn cùng mức độ. Hoàn toàn chẳng muốn làm ngày lễ này mất vui, buổi lễ mà tôi sẽ còn giữ mãi ấn tượng không phai mờ về nó, dù sao tôi cũng xin phép được nói rằng, những nỗi đau buồn tôi đã trải nghiệm trong 15 năm qua nhiều hơn những niềm vui của tôi rất nhiều. Và những nỗi đau này không mang tính cá nhân, – hoàn toàn không. Tuy vậy, tôi vẫn có thể nói một cách chắc chắn rằng, trong tất cả những niềm vui trong cuộc đời nhà văn của tôi thì điều kì diệu nhỏ bé của kĩ thuật hiện đại, tiếng chuông điện thoại gọi từ Stokholm đến vùng Grasse, đã cho tôi, với tư cách nhà văn, sự mãn nguyện tuyệt đối. Giải thưởng văn học do người đồng bào vĩ đại của quý vị, ngài Alfred Nobel sáng lập nên, là sự tôn vinh cao quý nhất của lao động nhà văn! Tính háo danh vốn là bản tính của mỗi người và mỗi tác giả, và tôi vô cùng tự hào được nhận giải thưởng này từ phía những vị giám khảo rất có uy tín và công tâm. Nhưng, vào ngày 9 tháng 11, có phải tôi chỉ nghĩ về bản thân mình? Không, điều đó là quá ích kỉ. Sau khi được trải qua những phút giây cảm động vô bờ từ hàng loạt loạt lời chúc mừng và những bức điện đầu tiên, trong sự tĩnh lặng và sự cô đơn của đêm dài, tôi nghĩ đến ý nghĩa sâu xa trong hành động của Viện Hàn lâm Thụy Điển. Lần đầu tiên kể từ khi sáng lập nên giải thưởng Nobel, quý vị đã phong tặng nó cho một người lưu vong. Mà tôi là ai chứ? Một người lưu vong được nước Pháp dang tay tiếp đón, đất nước mà tôi sẽ mãi mãi biết ơn. Thưa các vị Viện sĩ Viện Hàn lâm, cho phép tôi gác lại cá nhân tôi và các tác phẩm của tôi, được nói với các vị rằng cử chỉ của các vị thật cao đẹp. Trên thế giới vẫn còn tồn tại những lĩnh vực độc lập trọn vẹn nhất. Chắc chắn rằng, ngồi quanh bàn tiệc này là những vị đại diện cho đủ các quan điểm khác nhau, đủ các tín ngưỡng tôn giáo và chính trị khác nhau. Nhưng có một điều chung không thay đổi gắn kết tất cả chúng ta lại: đó là quyền tự do tư tưởng và tự do tín ngưỡng, những thứ mà nền văn minh đã mang lại cho chúng ta. Đối với nhà văn, quyền tự do này là đặc biệt cần thiết, – đối với họ, đó là giáo điều, là tiền đề. Thưa các vị viện sĩ Viện Hàn lâm, chính cử chỉ của các vị chứng minh một lần nữa rằng tình yêu tự do là biểu tượng dân tộc chân chính của Thụy Điển.
Và tôi còn vài lời xin nói thêm để kết thúc bài phát biểu ngắn này. Không phải kể từ ngày hôm nay tôi mới đánh giá cao Hoàng gia của quý vị, đất nước, nhân dân và nền văn học của quý vị. Tình yêu nghệ thuật và văn học luôn là truyền thống đối với Hoàng gia Thụy Điển, cũng như đối với cả dân tộc cao quý của quý vị. Triều đình Thụy Điển do một chiến binh lừng lẫy thành lập là một trong những triều đình hiển hách nhất trên thế giới. Kính xin ngài, đức vua hiệp sĩ của một dân tộc hiệp sĩ, cho phép tôi, một nhà văn tự do ở xứ khác, người được ban thưởng bởi sự quan tâm của Viện Hàn lâm Thụy Điển, được thể hiện tình cảm chân thành và tôn kính nhất của mình đối với Người.
Tác phẩm của Ivan Bunin đã dịch ra tiếng Việt:
– Những Lối Đi Dưới Hàng Cây Tăm Tối
Tác phẩm bao gồm những truyện hay nhất thời kỳ đầu Ivan Bunin: Những quả táo Antonov, Quý ông từ San Francisco đến – cùng những truyện ông viết trong những năm cuối đời – Say nắng, Những lối đi dưới hàng cây tăm tối… Chúng có thể được coi là những câu chuyện đắm say về tình yêu, và về cảnh trí không thể nào quên được của nước Nga. Xuyên suốt những truyện của ông là cảm giác về sự mong manh của tồn tại, là nhận thức thường trực về sự vô thường của những ước vọng và những kết quả của con người…
* Tác phẩm khác:
– Tuyển truyện Bunin, Hà Ngọc dịch và giới thiệu, Nxb Văn học, 1987.
– Nàng Lika (tập truyện), Phan Hồng Giang dịch, Nxb Tác phẩm mới, 1988.
– Thơ Bunin, in trong quyển Thái Bá Tân. Thơ dịch, Nxb Lao động, 2001.
– Ivan Bunin: Tuyển tập tác phẩm (thơ và truyện ngắn), Phan Hồng Giang giới thiệu, nhiều người dịch, Nxb Lao động – Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2002.
– Quý ông từ San Francisco (truyện dài), Hà Ngọc dịch, Nxb Kim Đồng – Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2004.
– Trên biển đêm khuya, Ruxia, Phan Hồng Giang dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt Giải Nobel, Nxb Văn học, 1997.
– Natali, Phan Hồng Giang dịch, in trong Truyện ngắn chọn lọc – tác giả đoạt Giải Nobel, Nxb Hội Nhà văn, 1998; 100 truyện ngắn hay thế giới (tập 1), Nxb Hội Nhà văn, 1999; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt Giải Nobel, Nxb Hội Nhà văn, 2004.
– Một chuyện tình nho nhỏ, Ở một thành phố thân quen, Những con đường rợp bóng cây xanh, Kapkaz, Thái Bá Tân dịch, in trong Tạp chí Văn học nước ngoài, số 1/1996; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt Giải Nobel, Nxb Văn học, 1999.
– Hơi thở nhẹ (tập truyện, gồm các truyện: Hơi thở nhẹ, Say nắng, Natali, Ruxia), Phan Hồng Giang dịch, Nxb Hà Nội, 2003.
– Hơi thở nhẹ, Phan Hồng Giang dịch, in trong Truyện ngắn chọn lọc – tác giả đoạt Giải Nobel, Nxb Hội Nhà văn, 1998; 100 truyện ngắn hay thế giới (tập 1), Nxb Hội Nhà văn, 1999; Những truyện ngắn nổi tiếng thế giới, Nxb Hội Nhà văn, 2000; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, Nxb Hội Nhà văn, 2004.
– Say nắng, Phan Hồng Giang dịch, in trong tập truyện ngắn nước ngoài Say nắng, Nxb Quân đội Nhân dân 1993; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt Giải Nobel, Nxb Văn học, 1997; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt Giải Nobel, Nxb Hội Nhà văn, 2004.
– Lần gặp gỡ cuối cùng, Phan Hồng Giang dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt Giải Nobel, Nxb Hội Nhà văn, 2004.
Mạnh Cường dịch từ nguyên bản tiếng Nga
Đoàn Tử Huyến hiệu đính
© Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây
Ghi chú:
(1) Do Per Hallstrum, Thư kí thường trực Viện Hàn lâm Thụy Điển đọc.
(2) Trong bản tiếng Anh, từ này là novel.
(3) Theo bản tiếng Anh Lời tuyên dương của Viện Hàn lâm Thụy Điển, Phần I của Cuộc đời Arseniev có tên là The well of days và được phiên âm là Istóky dnéy (ẩủũợờố ọớồộ). ở nguyên bản tiếng Nga ặốỗớỹ Àðủồớỹồõa, chúng tôi không tìm thấy phần này, mà chỉ thấy một truyện ngắn của I. Bunin viết năm 1906 có tên là ể ốủũợờà ọớồộ (U istúka dnộy), được coi là khởi đầu của lối tự sự được phát triển trong Cuộc đời Arseniev (BT).
(4) I. Bunin đọc trong tiệc chiêu đãi giải thưởng Nobel ngày 10/12/1933 tại Grand Hotel (Stockholm).
(5) Những ngày Nobel là thiên bút kí ghi lại những ngày I. Bunin nhận Giải Nobel, trong đó có nguyên văn bài Diễn từ của ông. Chúng tôi dịch và đăng toàn bộ bài bút kí này vào mục Diễn từ. Diễn từ được Bunin đọc trong bữa tiệc Nobel diễn ra tại khách sạn Grand, Stockholm, Thụy Điển ngày 10 tháng 12 năm 1933.